Về việc quản lý chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: Nội dung chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được xác định trong tổng mức đầu tư dự án, công trình sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo hướng dẫn tại Thông tư số 09/2019/TT-BXD ngày 26/12/2019 của Bộ Xây dựng.
Trong quá trình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, cần thiết phải thực hiện công tác đo đạc, lập mảnh trích đo địa chính khu đất (xác định vị trí thửa đất bị ảnh hưởng bởi dự án) để phục vụ công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Vậy, chi phí đo đạc, lập mảnh trích đo địa chính khu đất thuộc khoản mục chi phí nào?
Trường hợp chi phí đo đạc, lập mảnh trích đo địa chính khu đất thuộc chi phí tổ chức bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo Khoản 4 Điều 4 Nghị định số 68/2019/NĐ-CP thì dự toán chi phí công việc này thuộc 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ của dự án theo Khoản 2 Điều 31 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP sẽ không phù hợp do không bảo đảm chi phí để thực hiện (đối với các dự án không thực hiện trên các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn; không phải là dự án xây dựng công trình hạ tầng theo tuyến).
Trường hợp chi phí đo đạc, lập mảnh trích đo địa chính khu đất thuộc các chi phí khác có liên quan theo Khoản 4 Điều 4 Nghị định số 68/2019/NĐ-CP thì dự toán chi phí đo đạc, lập mảnh trích đo địa chính khu đất được lập theo quy định nào, cơ quan nào thẩm định, phê duyệt?
Về điều chỉnh tiến độ thực hiện hợp đồng xây dựng: Đối với quy định tại Khoản 3 Điều 39 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP “khi điều chỉnh tiến độ hợp đồng không làm kéo dài tiến độ thực hiện hợp đồng (bao gồm cả thời gian được kéo dài tiến độ thực hiện hợp đồng theo quy định của hợp đồng xây dựng) thì chủ đầu tư và nhà thầu thỏa thuận, thống nhất việc điều chỉnh” là chưa rõ, chúng tôi đề nghị Bộ Xây dựng có ví dụ cụ thể trường hợp này hoặc có ý kiến về việc thực hiện điều chỉnh tiến độ thực hiện hợp đồng ở ví dụ được nêu dưới đây.
Ví dụ: Một hợp đồng xây dựng có thời gian thực hiện hợp đồng là 720 ngày, được tính từ ngày hợp đồng có hiệu lực cho đến khi các bên đã hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng xây dựng đã ký (bao gồm cả thời gian bảo hành); hình thức hợp đồng trọn gói; các bên quy các điều khoản được điều chỉnh tiến độ thực hiện hợp đồng, trong đó gồm nội dung “sự chậm trễ, trở ngại trên công trường do bên giao thầu, nhân lực của bên giao thầu hay các nhà thầu khác của bên giao thầu gây ra như: Việc bàn giao mặt bằng không đúng với các thỏa thuận trong hợp đồng (bàn giao mặt bằng chưa đủ, chưa sạch, bàn giao từng phần)”.
Các bên quy định cụ thể thời gian thi công là 360 ngày với tiến độ thi công từ ngày 1/1/2019 đến ngày 31/12/2019; thời gian bảo hành là 360 ngày, từ ngày 31/12/2019 đến 31/12/2020. Thời gian thực hiện dự án được cấp quyết định đầu tư phê duyệt từ năm 2018 đến năm 2020.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, do một phần diện tích xây dựng gặp khó khăn trong giải phóng mặt bằng, nhà thầu thực hiện được 210 ngày thì phải dừng thi công, thời gian dừng thi công từ ngày 30/7/2019. Đến ngày 15/11/2019, mặt bằng xây dựng được bàn giao toàn bộ cho nhà thầu. Khi đó các bên ký kết phụ lục điều chỉnh tiến độ thi công hợp đồng đến ngày 15/2/2020 (điều chỉnh tiến độ thi công do trừ thời gian vướng mặt bằng) và điều chỉnh tiến độ thực hiện công việc bảo hành đến ngày 15/2/2021 (từ ngày 15/2/2020 đến 15/2/2021).
Theo đó, tổng thời gian thực hiện hợp đồng vẫn không vượt 720 ngày, tổng thời gian thi công (gồm cả phần được điểu chỉnh) vẫn không vượt 360 ngày; đồng thời, khi điều chỉnh tiến độ thực hiện hợp đồng không vượt thời gian thực hiện dự án.
Căn cứ các quy định hiện hành, việc chủ đầu tư và nhà thầu thỏa thuận, thống nhất việc điều chỉnh tiến độ thực hiện hợp đồng nêu trên có đúng quy định không?
Về định mức chi phí quản lý dự án: Ban Quản lý dự án chúng tôi có bộ máy tổ chức và hoạt động theo đề án sắp xếp, tổ chức lại hoạt động ban quản lý dự án khu vực tại Quyết định số 2762/QĐ-UBND ngày 4/10/2017 của UBND huyện trên cơ sở tổ chức lại Ban Quản lý dự án theo hướng dẫn tại Thông tư số 16/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng.
Chúng tôi là ban quản lý dự án khu vực được UBND huyện giao làm chủ đầu tư một số dự án, công trình do UBND huyện là cấp quyết định đầu tư và quản lý, điều hành các dự án, công trình do UBND huyện làm chủ đầu tư.
Như vậy, khi lập tổng mức đầu tư xây dựng các công trình do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện làm chủ đầu tư và quản lý, điều hành các dự án do UBND huyện làm chủ đầu tư thì chi phí quản lý dự án có phải nhân với hệ số điều chỉnh k = 0,8 theo Quyết định số 79/QĐ-BXD ngày 15/2/2017 của Bộ Xây dựng không?
Về cách xác định quy mô dự án đầu tư theo Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng và các văn bản khác: Hiện nay không có văn bản giải thích cụ thể về từ ngữ quy mô dự án đầu tư. Căn cứ các quy định hiện hành, chúng tôi hiểu rằng quy mô dự án đầu tư được xác định theo tổng mức đầu tư hoặc diện tích sử dụng đất hoặc cấp công trình xây dựng, trừ các dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A không xác định theo tổng mức đầu tư hoặc diện tích sử dụng đất theo Điều 7, Điều 8 Luật Đầu tư công 2019. Từ đó, đối với dự án nhóm B, nhóm C khi điều chỉnh dự án làm tăng tổng mức đầu tư hoặc thay đổi diện tích sử dụng đất hoặc thay đổi cấp công trình so với dự án được duyệt thì mới gọi là thay đổi quy mô.
Xin hỏi, cách hiểu như nêu trên có đúng không?
Ví dụ: Một công trình xây dựng trường học được phê duyệt gồm 5 phòng học diện tích 500m2, 3.000m2 sân đường, 200m hàng rào. Tổng diện tích sử dụng đất của công trình là 8.000m2. Trong quá trình thực hiện có phát sinh 30m hàng rào (cùng quy mô và kết cấu với hàng rào của hồ sơ được duyệt) và phát sinh 100m2 sân đường (cùng quy mô và kết cấu với sân đường của hồ sơ được duyệt) nhưng không thay đổi cấp công trình, không thay đổi nhóm dự án, không thay đổi diện tích sử dụng đất và không làm vượt tổng mức đầu tư công trình được duyệt thì có làm thay đổi quy mô công trình không?