Tôi công tác Ban quản lý dự án “Chương trình đô thị miền núi phía Bắc - thành phố Tuyên Quang” đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn, giải đáp vướng mắc trong việc làm rõ hồ sơ dự thầu như sau:
Tại công trình A, quyết định đầu tư là UBND thành phố Tuyên Quang; Ban quản lý dự án “Chương trình đô thị miền núi phía Bắc - thành phố Tuyên Quang” là chủ đầu tư.
Theo kế hoạch lựa chọn nhà thầu được phê duyệt tháng 5/2020, công trình A có gói thầu tư vấn khảo sát, thiết kế lập bản vẽ thi công và dự toán công trình thực hiện hình thức đấu thầu rộng rãi qua mạng.
Sau khi mở thầu gói thầu tư vấn khảo sát, thiết kế lập bản vẽ thi công và dự toán công trình, bên mời thầu kiểm tra E-HSDT của nhà thầu B, thấy toàn bộ các tài liệu chứng minh hoàn thành công trình tương tự, cùng với các văn bằng, chứng chỉ nhân sự trùng số công chứng trong cùng một ngày (không đúng quy định theo Luật Công chứng).
Để xác thực tính chính xác của các tài liệu trong E-HSDT làm cơ sở đánh giá E-HSDT, bên mời thầu đã yêu cầu nhà thầu cung cấp bản chính các tài liệu trùng số công chứng để đối chiếu, làm rõ.
Theo Khoản 1 Điều 16 Nghị định 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định “nhà thầu có trách nhiệm làm rõ hồ sơ dự thầu theo yêu cầu của bên mời thầu”; theo hướng dẫn tại Mục 17 Chương I Mẫu hồ sơ mời thầu ban hành theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư “Nhà thầu phải chuẩn bị sẵn sàng các tài liệu gốc để phục vụ việc xác minh khi có yêu cầu của bên mời thầu”.
Cho tôi hỏi, vậy nếu vận dụng hướng dẫn tại Mục 17 Chương I Mẫu hồ sơ mời thầu ban hành theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT thì có được yêu cầu cung cấp bản chính để đối chiếu, làm rõ không?
Trường hợp nhà thầu không xuất trình bản chính để đối chiếu thì có xem xét đánh giá E-HSDT không đáp ứng yêu cầu không?