Chi tiết câu hỏi
Trả lời
Bộ Tài chính trả lời vấn đề này như sau:
Tại Điều 2 Thông tư số 200/2014/TT-BTC quy định "Thông tư này hướng dẫn việc ghi sổ kế toán, lập và trình bày báo cáo tài chính, không áp dụng cho việc xác định nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp đối với ngân sách Nhà nước".
Tại Khoản 2 Điều 57 Thông tư số 200/2014/TT- BTC quy định doanh nghiệp không hạch toán vào tài khoản 3387- doanh thu chưa thực hiện khoản tiền nhận trước của người mua mà doanh nghiệp chưa cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ.
Tại Điểm b Khoản 1.3 Điều 79 Thông tư số 200/2014/TT- BTC quy định:
"b) Doanh nghiệp chỉ ghi nhận doanh thu cung cấp dịch vụ khi đồng thời thỏa mãn các điều kiện sau:
- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn. Khi hợp đồng quy định người mua được quyền trả lại dịch vụ đã mua theo những điều kiện cụ thể, doanh nghiệp chỉ được ghi nhận doanh thu khi những điều kiện cụ thể đó không còn tồn tại và người mua không được quyền trả lại dịch vụ đã cung cấp;
- Doanh nghiệp đã hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch cung cấp dịch vụ đó;
- Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào thời điểm báo cáo;
- Xác định được chi phí phát sinh cho giao dịch và chi phí để hoàn thành giao dịch cung cấp dịch vụ đó".
Tại Khoản 5 Điều 78 Thông tư số 200/2014/TT- BTC quy định:
"5. Thời điểm, căn cứ để ghi nhận doanh thu kế toán và doanh thu tính thuế có thể khác nhau tùy vào từng tình huống cụ thể. Doanh thu tính thuế chỉ được sử dụng để xác định số thuế phải nộp theo luật định; doanh thu ghi nhận trên sổ kế toán để lập báo cáo tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán và tùy theo từng trường hợp không nhất thiết phải bằng số đã ghi trên hóa đơn bán hàng".
Như vậy, cho mục đích ghi sổ kế toán, lập và trình bày báo cáo tài chính thì khoản tiền mà khách hàng đã tạm ứng cho công ty của ông khi chưa cung cấp dịch vụ cho khách hàng sẽ chưa đủ điều kiện ghi nhận doanh thu để phản ánh vào tài khoản 511 - doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ cũng như không được phản ánh vào tài khoản 3387 - doanh thu chưa thực hiện mà chỉ được hạch toán vào bên có của tài khoản 131- phải thu của khách hàng.
Doanh nghiệp chỉ được ghi nhận doanh thu cung cấp dịch vụ vào tài khoản 511 khi đồng thời thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điểm b Khoản 1.3 Điều 79 Thông tư số 200/2014/TT-BTC.
Việc xuất hóa đơn GTGT cho khách hàng: Theo ông mô tả là căn cứ theo Khoản 2 Điều 9 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ thì dịch vụ mà công ty cung cấp cho khách hàng không thuộc trường hợp phải xuất hóa đơn khi nhận tạm ứng tiền của khách hàng nhưng đã lỡ xuất hóa đơn do đó đề nghị ông liên hệ với cơ quan thuế để được hướng dẫn cụ thể.
Về thời điểm xác định doanh thu tính thuế TNDN đối với dịch vụ cung cấp cho khách hàng: Tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thuế TNDN quy định: "Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế đối với dịch vụ là thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ cho người mua hoặc thời điểm lập hóa đơn cung ứng dịch vụ".
Như vậy, căn cứ quy định nêu trên, trường hợp thời điểm xác định doanh thu tính thuế TNDN của công ty có sự khác biệt với thời điểm ghi nhận doanh thu kế toán phản ánh vào tài khoản 511 để lập báo cáo tài chính thì đề nghị công ty của ông thực hiện theo quy định của Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 17 - Thuế thu TNDN và điều chỉnh các chỉ tiêu liên quan trên tờ khai quyết toán thuế TNDN để xác định nghĩa vụ thuế với ngân sách nhà nước của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật thuế.