Chi tiết câu hỏi
Trả lời
Cục Thuế TP. Đà Nẵng trả lời vấn đề này như sau:
Tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính quy định về người nộp thuế:
“1. Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
a) Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam, trong đó ngày đến và ngày đi được tính là một (01) ngày. Ngày đến và ngày đi được căn cứ vào chứng thực của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh trên hộ chiếu (hoặc giấy thông hành) của cá nhân khi đến và khi rời Việt Nam. Trường hợp nhập cảnh và xuất cảnh trong cùng một ngày thì được tính chung là một ngày cư trú.
Cá nhân có mặt tại Việt Nam theo hướng dẫn tại điểm này là sự hiện diện của cá nhân đó trên lãnh thổ Việt Nam.
b) Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo một trong hai trường hợp sau:
b.1) Có nơi ở thường xuyên theo quy định của pháp luật về cư trú:
... b.1.2) Đối với người nước ngoài: nơi ở thường xuyên là nơi ở thường trú ghi trong Thẻ thường trú hoặc nơi ở tạm trú khi đăng ký cấp Thẻ tạm trú do cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công an cấp.
... 2. Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện nêu tại khoản 1, Điều này.”
Căn cứ vào các quy định nêu trên, trường hợp Công ty có ký hợp đồng lao động với một số người nước ngoài đến Việt Nam làm việc lần đầu tiên nếu đáp ứng điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 111/2013/TT-BTCthì được xác định là cá nhân cư trú.
Về giấy tờ để chứng minh: căn cứ vào hộ chiếu (hoặc giấy thông hành) của cá nhân người nước ngoài khi đến và khi rời Việt Nam.
Nếu người lao động đến Việt Nam vào tháng 8/2018, theo hợp đồng lao động 1 năm thì việc xác định cá nhân cư trú phải căn cứ 12 tháng liên tục kể từ ngày có mặt tại Việt Nam. Công ty căn cứ vào thu nhập đã trả và số thuế đã khấu trừ để quyết toán thuế (người nộp thuế không uỷ quyền trong trường hợp này).