Chi tiết câu hỏi
Trả lời
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời vấn đề này như sau:
Theo Điểm e, g khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh Ngoại hối (đã sửa đổi bổ sung) quy định về người cư trú là công dân Việt Nam:
"e) Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam; công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thời hạn dưới 12 tháng; công dân Việt Nam làm việc tại các tổ chức quy định tại điểm d và điểm đ khoản này và cá nhân đi theo họ;
g) Công dân Việt Nam đi du lịch, học tập, chữa bệnh và thăm viếng ở nước ngoài;".
Tại khoản 3 Điều 4 Pháp lệnh Ngoại hối quy định: "Người không cư trú là các đối tượng không quy định tại khoản 2 Điều này."
Căn cứ Điều 16 Nghị định số 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối:
"Tổ chức tín dụng được phép và tổ chức khác được phép hoạt động ngoại hối khi thực hiện các giao dịch ngoại hối cho khách hàng có trách nhiệm xem xét, kiểm tra, lưu giữ các giấy tờ và các chứng từ phù hợp với các giao dịch thực tế để đảm bảo việc cung ứng các dịch vụ ngoại hối được thực hiện đúng mục đích và phù hợp với quy định của pháp luật".
Căn cứ các quy định trên, khi có nhu cầu thực hiện các giao dịch ngoại hối liên quan đến người cư trú/người không cư trú, công dân liên hệ với tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối và xuất trình các giấy tờ theo quy định của tổ chức tín dụng.
Theo đó, tổ chức tín dụng có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ và xác định công dân là người cư trú hoặc không cư trú để thực hiện giao dịch phù hợp với tình hình thực thế và quy định pháp luật.