Gửi câu hỏi
Xây dựng - Nông nghiệp - Môi trường

Hỏi: Đất dự án không sử dụng hết có bị thu hồi?

Trần Xuân Dũng - 09:05 28/05/2025

Chi tiết câu hỏi

Công ty tôi thuê 3,2 ha đất tại một khu công nghiệp ở Vĩnh Long để thực hiện dự án nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi. Dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, trong đó quy định thời gian triển khai dự án là từ tháng 12/2018 và đưa dự án vào sản xuất kinh doanh từ tháng 4/2019. Công ty đã triển khai dự án và đưa nhà máy vào hoạt động vào tháng 4/2019 theo đúng nội dung Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư được cấp. Tổng diện tích đất công ty đã sử dụng để xây dựng nhà máy khoảng 2,2 ha, theo đúng các giấy phép được cấp. Hợp đồng thuê lại đất giữa công ty và chủ đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp không quy định tiến độ sử dụng đất. Xin hỏi, công ty tôi có bắt buộc phải triển khai xây dựng thêm đối với phần diện tích 1 ha còn lại hay không? Trường hợp công ty chưa có kế hoạch xây dựng thêm đối với phần diện tích 1 ha còn lại đó thì có thuộc đối tượng bị thu hồi theo quy định tại khoản 5 Điều 93 Nghị định số 102/2024/NĐ-CP không?

Trả lời

Bộ Nông nghiệp và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:

Tại điểm a và điểm b khoản 5 Điều 51 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017; Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020, Nghị định số 10/2023/NĐ-CP ngày 03/4/2023 (sau đây gọi chung là Nghị định số 43/2014/NĐ-CP sửa đổi) đã có quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, làng nghề, trong đó có quy định:

(1) Khi ký hợp đồng cho thuê đất, cho thuê lại đất phải xác định cụ thể tiến độ sử dụng đất tương ứng với tiến độ thực hiện dự án đầu tư và biện pháp xử lý nếu bên thuê đất, bên thuê lại đất không đưa đất vào sử dụng hoặc chậm tiến độ sử dụng đất so với tiến độ sử dụng đất đã giao kết trong hợp đồng;

(2) Có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi, đôn đốc bên thuê đất, thuê lại đất đưa đất vào sử dụng theo đúng tiến độ đã giao kết trong hợp đồng;…

Trường hợp bên thuê đất, thuê lại đất không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng so với tiến độ đã giao kết trong hợp đồng thuê đất, thuê lại đất, trừ trường hợp bất khả kháng quy định tại khoản 1 Điều 15 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP sửa đổi thì doanh nghiệp đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, làng nghề có trách nhiệm yêu cầu bên thuê đất, thuê lại đất thực hiện các biện pháp để đưa đất vào sử dụng hoặc có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê đất, thuê lại đất; lập danh sách các trường hợp không đưa đất vào sử dụng hoặc chậm tiến độ sử dụng đất báo cáo Ban Quản lý các khu công nghiệp, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Các cơ quan nhận được báo cáo và doanh nghiệp đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, làng nghề có trách nhiệm công bố công khai danh sách các trường hợp không đưa đất vào sử dụng hoặc chậm tiến độ sử dụng đất trên trang thông tin điện tử của cơ quan, đơn vị (khoản 6 Điều 51 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP sửa đổi).

Trường hợp doanh nghiệp đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, làng nghề đã thực hiện các quy định tại khoản 6 Điều này mà bên thuê đất, thuê lại đất vẫn không đưa đất vào sử dụng, chậm tiến độ sử dụng đất thì UBND cấp tỉnh căn cứ kết quả kiểm tra, kết luận thanh tra thực hiện việc thu hồi đối với diện tích đất vi phạm của bên thuê đất, thuê lại đất và giao cho chủ đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, làng nghề (khoản 7 Điều 51 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP sửa đổi).

Tại khoản 8 Điều 51 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP sửa đổi quy định: Đối với trường hợp thuê đất, thuê lại đất của chủ đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, làng nghề trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp bất khả kháng quy định tại khoản 1 Điều 15 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP sửa đổi thì UBND cấp tỉnh thu hồi đất đối với các trường hợp sau:

(1) Không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng 36 tháng so với tiến độ sử dụng đất đã giao kết trong hợp đồng thuê đất, thuê lại đất;

(2) Quá thời hạn 36 tháng kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp các bên không có giao kết về tiến độ đưa đất vào sử dụng trong hợp đồng mà không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng.

Các trường hợp dự án bị thu hồi đất theo Luật Đất đai 2024

Kế thừa các quy định của pháp luật đất đai qua các thời kỳ và pháp luật đất đai năm 2013, tại Luật Đất đai năm 2024 và Nghị định số 102/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai cũng đã quy định về chế độ quản lý, sử dụng đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp.

Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 93 Nghị định số 102/2024/NĐ-CP quy định về trách nhiệm của chủ đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, theo đó chủ đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp khi ký hợp đồng cho thuê đất, thuê lại đất phải xác định cụ thể tiến độ sử dụng đất theo tiến độ thực hiện dự án đầu tư; kiểm tra, theo dõi, đôn đốc bên thuê đất, thuê lại đất đưa đất vào sử dụng theo đúng tiến độ đã giao kết trong hợp đồng.

Trường hợp bên thuê đất, thuê lại đất không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng so với tiến độ đã ký kết trong hợp đồng thuê đất, thuê lại đất, trừ trường hợp bất khả kháng thì chủ đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp có trách nhiệm yêu cầu bên thuê đất, thuê lại đất thực hiện các biện pháp để đưa đất vào sử dụng; báo cáo UBND cấp tỉnh các trường hợp không đưa đất vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng và công khai trên cổng thông tin điện tử của UBND cấp tỉnh.

Trường hợp chủ đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã thực hiện các biện pháp quy định tại khoản 3 Điều này mà bên thuê đất, thuê lại đất vẫn không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định tại khoản 8 Điều 81 Luật Đất đai thì đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê đất, cho thuê lại đất và kiến nghị UBND cấp có thẩm quyền thu hồi đối với diện tích đất vi phạm của bên thuê đất, thuê lại đất để bàn giao cho chủ đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp (khoản 4 Điều 93 Nghị định số 102/2024/NĐ-CP).

Đối với trường hợp thuê đất, thuê lại đất của chủ đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp trước ngày Nghị định số 102/2024/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp bất khả kháng thì UBND cấp có thẩm quyền thu hồi đất đối với các trường hợp sau:

(1) Không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng quá 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc tiến độ sử dụng đất đã ký kết trong hợp đồng thuê đất, thuê lại đất;

(2) Không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng quá 24 tháng kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất đối với trường hợp nội dung hợp đồng thuê đất, thuê lại đất không quy định về tiến độ đưa đất vào sử dụng (khoản 4 Điều 93 Nghị định số 102/2024/NĐ-CP).

Như vậy, theo các quy định của pháp luật đất đai nêu trên việc thu hồi đất do vi phạm tiến độ phụ thuộc vào tiến độ ghi trong dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc tiến độ sử dụng đất đã ký kết trong hợp đồng thuê đất, thuê lại đất.

Do Bộ Nông nghiệp và Môi trường không có thông tin cụ thể về tiến độ ghi trong dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt liên quan đến phần diện tích đất 1,0 ha còn lại chưa xây dựng nên không có cơ sở để trả lời cụ thể. Đề nghị công ty nghiên cứu quy định nêu trên để thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Gửi câu hỏi

Tìm kiếm nhanh

Từ khóa
Tìm trong
Tìm kiếm
Top