Trần Thanh Phong -
07:05 23/08/2025
Theo quy định, cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu đã hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định công bố mở, nếu không được gia hạn hoạt động thì chủ cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu phải tháo dỡ công trình, thiết bị có ảnh hưởng đến an toàn giao thông, rà quét và thanh thải vật chướng ngại trong khu nước cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu (nếu có) trong thời gian 60 ngày, kể từ ngày hết thời hạn hoạt động theo quy định. Cơ quan có thẩm quyền công bố mở cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu phối hợp với UBND xã, phường, thị trấn tổ chức giám sát việc tháo, dỡ công trình cảng, bến thủy nội địa, rà quét và thanh thải vật chướng ngại trong khu nước cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu. Tuy nhiên thực tế, đã có nhiều trường hợp chủ cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu không tự thực hiện với nhiều lý do khác nhau (doanh nghiệp ngừng hoạt động, phá sản, giải thể,…). Tôi xin hỏi, trong trường hợp nêu trên thì cơ quan nào sẽ thực hiện tháo dỡ công trình, thiết bị có ảnh hưởng đến an toàn giao thông, rà quét và thanh thải vật chướng ngại trong khu nước cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu và kinh phí thực hiện từ nguồn kinh phí nào? Nếu sử dụng kinh phí của nhà nước thì rất vô lý vì khi công bố mở bến, chủ bến chỉ nộp cho nhà nước tiền phí 40.000 đồng nhưng việc tháo dỡ này lại rất tốn kinh phí, thời gian. Do đó, tôi đề nghị cần xem xét có quy định rõ đối với trường hợp này. (2) Về thỏa thuận thông số kỹ thuật xây dựng và công bố bến thủy nội địa, theo quy định chủ bến phải nộp hồ sơ “Bản sao kèm bản chính để đối chiếu hoặc bản sao điện tử hoặc bản sao điện tử từ sổ gốc hoặc bản sao điện tử có chứng thực từ bản chính giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sử dụng đất”. Thực tế cho thấy, bến thủy nội địa là công trình giao thông, đất sử dụng đầu tư xây dựng bến thủy nội địa gồm có phần đất tiếp giáp đất hành lang bảo vệ trên bờ sông, kênh, rạch và đất hành lang bảo vệ trên bờ sông, kênh, rạch. Phần lớn chủ bến đều có giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sử dụng đất đối với đất tiếp giáp đất hành lang bảo vệ trên bờ sông, kênh, rạch nhưng không có giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sử dụng đất đối với đất hành lang bảo vệ trên bờ sông, kênh, rạch (mặc dù đất đó không phải đất công). Do đó, tôi đề nghị có quy định rõ để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong đầu tư xây dựng bến thủy nội địa. (3) Đối với việc cấp giấy phép vào, rời cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu đối với phương tiện, thủy phi cơ, theo quy định, phương tiện, thủy phi cơ được cấp giấy phép vào, rời cảng, bến thủy nội địa khi bảo đảm các điều kiện theo quy định tại Nghị định số 08/2021/NĐ-CP gồm: nộp và xuất trình đầy đủ hồ sơ của thuyền viên, phương tiện; (kiểm tra) sự phù hợp của giấy tờ theo quy định; (kiểm tra) điều kiện an toàn thực tế của phương tiện trên cơ sở giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện. Hiện tại, nội dung thứ 3 “kiểm tra điều kiện an toàn thực tế của phương tiện trên cơ sở giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện” là rào cản lớn nhất trong việc chuyển đổi số để thực hiện dịch vụ công một cửa quốc gia. Tôi cho rằng, một là cần tách bạch nội dung này thành khâu riêng lẻ để cấp giấy phép vào, rời cảng, bến thủy nội địa, khu neo đậu đối với phương tiện, thủy phi cơ; hai là các giấy tờ nộp và xuất trình cần phải được quan tâm cấp thêm bản điện tử ngoài bản giấy đã được các cơ quan, đơn vị cấp như hiện nay. (4) Về cảng, bến thủy nội địa, theo tôi, cần định nghĩa lại loại hình cảng, bến thủy nội địa để phân biệt có kinh doanh và không có kinh doanh khai thác cảng, bến thủy nội địa. Việc phân biệt rõ hơn để xác định tầm quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế, xã hội, kết nối giao thông đối với từng loại hình cảng, bến thủy nội địa có kinh doanh và không có kinh doanh khai thác cảng, bến thủy nội địa. Cảng, bến thủy nội địa có kinh doanh khai thác cảng, bến thủy nội địa (khai thác cầu tàu, xếp dỡ, thu gom xử lý rác thải, bảo trì, bảo dưỡng phương tiện, cung cấp nhiên nhiệu,…) cần được quan tâm tạo điều kiện để phục vụ nhu cầu chung của xã hội. Đối với bến thủy nội địa không có kinh doanh (chỉ phục vụ nhu cầu cá nhân) thì cần có các quy định, giải pháp để hạn chế như: thu phí sử dụng vùng nước khai thác bến thủy nội địa,… (5) Về hoạt động vận tải hành khách công cộng bằng phương tiện thủy trên các tuyến đường thủy, tôi đề nghị có quy định riêng để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động vận tải hành khách công cộng; có quy định cụ thể về các điểm dừng (không nhất thiết là cảng, bên thủy nội địa) đón, trả khách; miễn, giảm phí, lệ phí, thủ tục đối với phương tiện tham gia hoạt động vận tải hành khách công cộng.
Xem chi tiết