Ngô Ngọc Tân -
11:05 25/07/2025
Trong giai đoạn 1990-2010, thực hiện chủ trương xã hội hóa nghề rừng của Nhà nước, nhiều tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đã ký hợp đồng giao khoán đất lâm nghiệp dài hạn (20-50 năm) với Ban quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ. Trên cơ sở đó, người dân đã chủ động đầu tư trồng rừng kinh tế, bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời được thụ hưởng thành quả từ hoạt động sản xuất lâm nghiệp theo chu kỳ khai thác đã được thiết lập. Tuy nhiên, từ khi Luật Lâm nghiệp 2017 và các văn bản văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành, một số nội dung quy định mới đã phát sinh vướng mắc, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và tổ chức nhận khoán đất lâm nghiệp. Theo đó, đối với rừng đặc dụng, pháp luật hiện hành không cho phép khai thác chính, kể cả đối với diện tích rừng trồng do người dân tự bỏ vốn đầu tư trên cơ sở hợp đồng giao khoán hợp pháp trước đây. Điều này làm gián đoạn chu kỳ sản xuất, cản trở khả năng thu hồi vốn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân. Đối với rừng phòng hộ, quy định giới hạn khai thác không quá 20% tổng diện tích mỗi năm, không phân biệt nguồn vốn đầu tư hay mức độ xung yếu của khu vực, khiến quá trình khai thác tháo kéo dài, phát sinh chi phí bảo vệ, làm giảm hiệu quả kinh tế, từ đó suy giảm động lực bảo vệ và phát rừng. Thực tế nêu trên cho thấy sự thiếu thống nhất giữa chính sách trước và sau khi Luật Lâm nghiệp 2017 có hiệu lực, đồng thời chưa thực sự tạo được hành lang pháp lý phù hợp để khuyến khích người dân, tổ chức tiếp tục gắn bó với rừng. Để tháo gỡ các bất cập nêu trên, bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người dân, hài hòa với mục tiêu bảo vệ và phát triển rừng bền vững, tôi đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật Lâm nghiệp 2017 như sau: Bổ sung khoản 4a sau điểm 4 Điều 52 khai thác lâm sản trong rừng đặc dụng: "4a. Trường hợp Nhà nước giao khoán đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để trồng rừng kinh tế trước thời điểm Luật Lâm nghiệp 2017 có hiệu lực hoặc tổ chức, cá nhân có diện tích rừng trồng kinh tế thuộc quyền sở hữu hợp pháp được UBND cấp xã hoặc cơ quan kiểm lâm sở tại xác nhận thì chủ quản lý rừng hoặc chủ lâm sản được khai thác với điều kiện không làm ảnh hưởng đến chức năng bảo tồn của khu rừng đó". Bổ sung khoản b1 điểm 3 Điều 54 khai thác lâm sản trong rừng phòng hộ: "d) Rừng trồng do tổ chức, cá nhân tự bỏ vốn đầu tư, có nguồn gốc hợp pháp không thuộc khu vực đặc biệt xung yếu thì chủ rừng hoặc chủ lâm sản tự quyết định tỷ lệ, phương thức khai thác". Đồng thời, tôi kiến nghị bổ sung tiêu chí phân cấp mức độ xung yếu rừng phòng hộ vào Nghị định số 156/2018/NĐ-CP. Hiện nay, Quyết định số 17/2015/QĐ-TTg ngày 09/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý rừng phòng hộ đã hết hiệu lực, nhưng chưa được thay thế trong hệ thống pháp luật hiện hành. Việc thiếu tiêu chí kỹ thuật cụ thể đã dẫn đến khó khăn trong phân định rừng phòng hộ xung yếu, đặc biệt xung yếu, đây là căn cứ quan trọng để xác định chế độ quản lý và khai thác rừng phòng hộ phù hợp. Đề nghị có thẩm quyền xem xét các đề xuất nêu trên nhằm bảo đảm tính kế thừa của chính sách, tạo sự ổn định cho người dân, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế lâm nghiệp gắn với bảo vệ tài nguyên rừng bền vững.
Xem chi tiết