Tìm kiếm
Danh sách câu hỏi
Tài chính – Ngân hàng – Công Thương

Tài chính – Ngân hàng – Công Thương

Hai công ty có chung giám đốc có được cùng tham gia một dự án?
Công ty A và công ty B có chung thành viên, cụ thể: Ông X vừa là Giám đốc phụ trách của công ty A vừa là Tổng Giám đốc của công ty B. Công ty A và công ty B cùng tham gia cùng một dự án của cơ quan Nhà nước: Công ty A tham gia tư vấn thiết kế, công ty B dự thầu và trúng gói thầu thi công. Tôi xin hỏi, công ty A và công ty B tham gia vào những công việc như vậy của cùng một dự án có trái quy định không? Nếu không, đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn cụ thể.
Tài chính – Ngân hàng – Công Thương

Đấu thầu qua mạng, nhà thầu có thể cập nhật hồ sơ dự thầu?
Theo quy trình đấu thầu hiện nay, thì hồ sơ thầu của các nhà thầu phải được niêm phong đến tận thời điểm mở thầu dẫn đến nhiều nhà thầu đủ năng lực nhưng vẫn bị trượt thầu chỉ vì những lỗi rất nhỏ không đáng có, mặc dù giá rất cạnh tranh dẫn đến không lựa chọn được nhà thầu giá tốt nhất, gây thất thoát tiền của Nhà nước. Theo ý kiến cá nhân tôi thì quy trình đấu thầu hiện nay có thể hiểu là thi thầu hơn là đấu thầu, hồ sơ chào thầu của nhà thầu giống như bài thi chứ không có cuộc đấu nào giữa các nhà thầu. Vì vậy với chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước về việc áp dụng hình thức đấu thầu qua mạng, tôi xin đề xuất về việc cho phép nhà thầu cập nhật hồ sơ thầu liên tục. Khi nhà thầu gửi hồ sơ chào thầu sau sẽ biết được điểm mạnh, điểm yếu của nhà thầu trước để nâng cao năng lực cạnh tranh cho nhà thầu mình, sau đó, các nhà thầu mới có cuộc "đấu" thầu đúng nghĩa, rượt đuổi, so kè từng điểm số một. Nhà thầu nào gửi nhiều hồ sơ thì hồ sơ cuối cùng sẽ được đấu thầu. Như vậy vừa tạo ra minh bạch mà không làm thất thoát tiền của Nhà nước. Trên đây là ý kiến của tôi với mong muốn để các cuộc "đấu thầu" trở nên đúng nghĩa cuộc đấu giữa các nhà thầu, giúp Nhà nước chọn được nhà thầu tốt nhất, tiết kiệm ngân sách Nhà nước.
Xây dựng - Nông nghiệp - Môi trường

Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất
Tài chính – Ngân hàng – Công Thương

Có tên trên Hệ thống đấu thầu quốc gia là đáp ứng yêu cầu?
- Về tính hợp lệ của nhà thầu tham gia đấu thầu: Hồ sơ mời thầu yêu cầu các nhà thầu đã đăng ký tên trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, nhà thầu phải đạt năng lực tương ứng với hạng II theo quy định tại Điều 65, Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 (Kèm theo tài liệu chứng minh) và chứng minh được năng lực kinh nghiệm đã thi công các công trình có quy mô, tính chất tương tự như gói thầu đang xét. Nhà thầu X có chứng chỉ năng lực xây dựng dân dụng hạng I. Giấy đăng ký hoạt động doanh nghiệp của nhà thầu X được đăng ký năm 2009 đăng kýhoạt động xây dựng ở mã ngành nghề 4290 là xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng khác (Mã ngành xây dựng công trình công nghiệp, trừ nhà cửa) được chi tiết rõ tên ngành trong giấy phép kinh doanh bao gồm “Xây dựng: Dân dụng, công nghiệp, giao thông, cầu đường, thủy lợi (Đập dâng, hồ chứa, xây lắp kè công, kênh mương, đào đắp kè); Xây dựng đường dây tải điện, trạm biến áp có điện áp từ 35KV trở xuống, xây lắp cấp thoát nước; Xây dựng công trình văn hóa”. Hồ sơ dự thầu của nhà thầu X chứng minh năng lực kinh nghiệm của mình đã thực hiện công trình dân dụng cấp II được xây dựng từ tháng 11/2012 và hoàn thành năm 1/2015 (Hợp đồng có giá trị 127 tỉ, biên bản nghiệm thu đưa vào sử dụng, hóa đơn thuế giá trị gia tăng cho toàn bộ giá trị công trình và công trình đã được quyết toán năm 2015). Từ các yếu tố trên Tổ chuyên gia chấm thầu của chủ đầu tư có 2 quan điểm trái chiều: Quan điểm I: Mặc dù có thi công thực tế nhưng năng lực kinh nghiệm của nhà thầu không được chấp nhận vì thực hiện xây dựng công trình không đúng ngành nghề đã đăng ký hoạt động (vi phạm pháp luật) dẫn đến kết luận năng lực nhà thầu không hợp lệ. Quan điểm II: Hồ sơ mời thầu chỉ yêu cầu nhà thầu có đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu Quốc gia và kinh nghiệm thực tế thi công các công các công trình tương tự về quy mô, tính chất phức tạp là đáp ứng yêu cầu cầu hồ sơ mời thầu, bên cạnh đó tại điều 7 Luật Doanh nghiệp 68/2014/QH13 có quy định quyền của doanh nghiệp “Tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm;Tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh” và tại Điều 29 Luật Doanh nghiệp cũng bỏ nội dung ghi mã ngành nghề trên giấy đăng ký hoạt động doanh nghiệp nhằm mở rộng thông thoáng môi trường kinh doanh cho các nhà thầu. Nhà thầu đã được cấp chứng chỉ năng lực hạng I về dân dụng. Như vậy, năng lực kinh nghiệm của nhà thầu X này hoàn toàn hợp lệ. Đề nghị cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn về tính hợp lệ của nhà thầu này.
- Về tư cách hợp lệ của nhà thầu tư vấn lập hồ sơ mời thầu và chấm thầu: Nhà thầu tư vấn được chủ đầu tư chỉ định thầu với giá trị thực hiện cho việc lập hồ sơ mời thầu và chấm thầu các gói thầu xây lắp và thiết bị là 130 triệu đồng (Nhà thầu này có cung cấp năng lực kinh nghiệm, giấy phép kinh doanh và đã đăng ký tên trên Hệ thống mạng đấu thầu vào ngày 31/7/2014 đến chủ đầu tư) tuy nhiên tại thời điểm được chỉ định thầu nhà thầu chưa nộp phí duy trì hoạt động trên Hệ thống. Được biết đây là ngành nghề kinh doanh không điều kiện và năng lực chính là năng lực của các chuyên gia tư vấn, tại Điều 31 Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BKHĐT-BTC ngày 8/9/2015 có nêu “Nhà thầu, nhà đầu tư không nộp chi phí duy trì tên và dữ liệu trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia theo đúng thời hạn trên sau khi đã được nhắc nhở nhưng vẫn không nộp thì việc đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia bị xem là hết hiệu lực, khi đó, nhà thầu, nhà đầu tư sẽ không in được bản xác nhận đã đăng ký tham gia Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia quy định tại Khoản 3 Điều 6 Thông tư này” chứ không quy định hủy bỏ tư cách đã đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Đến nay Nhà thầu tư vấn đã nộp phí duy trì hoạt động và được gia hạn. (Quá trình nộp phí nhà thầu chỉ cần chuyển tiền cho tài khoản của Hệ thống mạng là tự động được gia hạn, nhà thầu không phải thực hiện việc đăng ký lại năng lực của mình). Vậy có được hiểu rằng “Việc có tên đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia bị xem là hết hiệu lực” không ràng buộc tính hợp lệ của năng lực nhà thầu? Nhà thầu này có năng lực hợp lệ khi thực hiện công việc tư vấn của mình không?
Lao động – Tiền lương – Người có công

Quy định về trích và sử dụng nguồn cải cách tiền lương
Lao động – Tiền lương – Người có công

Quy định về chấm dứt hợp đồng với lao động đủ điều kiện về hưu
- Luật BHXH 2014, Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 quy định chi tiết một số điều của Luật BHXH và BHXH bắt buộc; Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH và BHXH bắt buộc đều hướng dẫn mốc tính tuổi nghỉ hưu trong trường hợp này là đủ 55 tuổi (nam) và đủ 50 tuổi (nữ).
- Theo Khoản 4, Điều 36; Khoản 2, Điều 187 Bộ luật Lao động 2012; Điểm b, Khoản 1, Điều 54 Luật BHXH 2014, chỉ cần khi người lao động làm công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm đạt đến độ tuổi tối thiểu để tính tuổi nghỉ hưu (đủ 55 tuổi đối với nam; đủ 50 tuổi đối với nữ) và đáp ứng điều kiện về thời gian đóng BHXH thì đơn vị có quyền chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần phải có sự thoả thuận với người lao động .
- Điều kiện để chấm dứt hợp đồng lao động đối với những người lao động làm nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm (có 2 điều kiện) đó là đủ 20 năm đóng BHXH trở lên; lao động nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi; Có 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc độc hại, nguy hiểm.
- Khi chấm dứt hợp đồng lao động, đơn vị phải bảo đảm tuân thủ trách nhiệm của người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 47, Bộ luật Lao động 2012.
- Trường hợp người lao động tiếp tục làm việc sau độ tuổi được quy định tại Điều 187 Bộ luật Lao động 2012, họ sẽ được xác định là người lao động cao tuổi. Theo Điều 167 Bộ luật Lao động 2012, khi có nhu cầu, người sử dụng lao động có thể thỏa thuận với người lao động cao tuổi có đủ sức khỏe kéo dài thời gian lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới. Tuy nhiên, người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động cao tuổi làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm có ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người lao động cao tuổi... Vậy, quyền chấm dứt hợp đồng lao động theo nội dung như trên có đúng quy định không? Nếu đúng thì quyền lợi của người lao động trong trường hợp này được pháp luật bảo vệ như thế nào? Nếu không đúng, thì đây có phải là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật không? Người lao động phải làm gì để được bảo vệ?
Tài chính – Ngân hàng – Công Thương

Gói thầu thuộc dịch vụ phi tư vấn hay mua sắm hàng hóa?
Tài chính – Ngân hàng – Công Thương

Chi phí hạng mục chung có phân bổ vào giá dự thầu?

12 nhóm đối tượng người có công được chế độ ưu đãi
Bảo hiểm – Trợ cấp xã hội
